Báo cáo tổng kết về tình hình tổ chức, hoạt động của Hội đồng nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương năm 2022 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2023 (Bản tóm tắt)
Cập nhật : 9:59 - 21/02/2023
(Tài liệu Hội nghị toàn quốc Tổng kết công tác Hội đồng nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương năm 2022 và triển khai kế hoạch công tác năm 2023, tổ chức tại tỉnh Quảng Ninh, ngày 21/2/2023)

BÁO CÁO TÓM TẮT TỔNG KẾT
Về tình hình tổ chức, hoạt động của Hội đồng nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương năm 2022 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2023

Thực hiện chức năng giám sát, hướng dẫn hoạt động của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) đối với hoạt động của Hội đồng nhân dân (HĐND) theo quy định của Hiến pháp, Luật Tổ chức Quốc hội và Luật Tổ chức chính quyền địa phương, trên cơ sở báo cáo của HĐND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, UBTVQH tổng kết, đánh giá về tình hình tổ chức, hoạt động của HĐND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương năm 2022 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2023, cụ thể như sau:
I. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH CHUNG 
Năm 2022 là năm thứ 2 thực hiện các Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII và nhiều Nghị quyết quan trọng của Đảng, các Nghị quyết của Quốc hội liên quan đến phát triển kinh tế - xã hội như Nghị quyết số 16/2021/QH15, Nghị quyết số 30/2021/QH15, Nghị quyết số 43/2022/QH15. 
Trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước còn gặp nhiều khó khăn và thách thức, dưới sự lãnh đạo, kiên định, vững vàng, trí tuệ, sáng tạo, nhạy bén, kịp thời của Trung ương, Bộ Chính trị, Quốc hội, Chính phủ; sự chỉ đạo sâu sát, quyết liệt, linh hoạt của các cấp ủy Đảng, chính quyền; sự vào cuộc tích cực của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể, các tầng lớp Nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp trên dưới đồng lòng, đoàn kết, quyết tâm sớm khắc phục hậu quả dịch Covid-19, khôi phục mạnh mẽ kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh, trận tự an toàn xã hội; cùng với sự hỗ trợ của bạn bè quốc tế, chúng ta đã đạt được những thành tựu khá toàn diện, tạo dấu ấn nổi bật quan trọng trong bối cảnh kinh tế thế giới suy giảm, đưa nước ta trở thành điểm sáng về phát triển kinh tế - xã hội của thế giới, góp phần nâng cao vị thế và uy tín của nước ta trên trường quốc tế. Kinh tế vĩ mô tiếp tục duy trì ổn định; lạm phát được kiểm soát; tăng trưởng GDP đạt 8,02%, mức cao nhất kể từ năm 2011; các cân đối vĩ mô được bảo đảm. Thu ngân sách nhà nước đạt 1,804 triệu tỷ đồng, vượt 27,76% so với dự toán và tăng 14,12% so với năm 2021; tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu đạt 739,5 tỷ USD, xuất siêu năm thứ 7 liên tiếp, đạt 11,2 tỷ USD; công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị tiếp tục được đẩy mạnh, có sự chuyển biến rất tích cực, đạt nhiều kết quả nổi bật, ấn tượng; các lĩnh vực văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, bảo vệ môi trường, thích ứng biến đổi khí hậu có nhiều chuyển biến, nhiều mặt được tăng cường. 
Trong đó có nhiều tỉnh, thành phố có tốc độ tăng trưởng kinh tế và thu ngân sách cao như: Thành phố Hồ Chí Minh (đạt 9,0%, tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn là 478,732 tỷ đồng); Hà Nội (đạt 8,9%, tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn là 331,969 tỷ đồng); Hải Phòng (đạt 12,3%, tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn là 106.104 tỷ đồng); Bà Rịa - Vũng Tàu (đạt 7,2%, tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn đạt 71,555 tỷ đồng); các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai, Hưng Yên, Quảng Ninh, Thanh Hóa thu ngân sách nhà nước trên địa bàn đạt cao từ 50.000 tỷ đồng trở lên; nhiều tỉnh đã vượt thu ngân sách nhà nước so với dự toán trên 50% .
Đóng góp vào những kết quả nêu trên, có sự vào cuộc tích cực của Quốc hội trong việc kiến tạo thể chế, tạo nên khung khổ pháp lý quan trọng cho tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chính phủ, chính quyền địa phương, trong đó có HĐND. Năm 2022, hoạt động Quốc hội tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động, đã tổ chức thành công 02 kỳ họp thường lệ, 01 kỳ họp bất thường, ban hành 12 luật, cho ý kiến 8 dự án luật khác, ban hành nhiều nghị quyết quan trọng thúc đẩy phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội … sự vào cuộc quyết liệt của UBTVQH với việc lần đầu tiên tổ chức Hội nghị toàn quốc tổng kết hoạt động năm 2021 của HĐND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tại 03 miền Bắc, Trung, Nam và 06 Hội nghị khu vực trong cả nước, đã ban hành nhiều văn bản, giải quyết 53 ý kiến, kiến nghị của các địa phương, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong thể chế; ban hành Nghị quyết 594/NQ-UBTVQH15 và Kế hoạch số 389/KH-UBTVQH5 tạo sự chuyển biến tích cực trong hoạt động của HĐND, nhất là hoạt động giám sát của HĐND ngày càng đi vào thực chất, hiệu quả hơn; Chính phủ kịp thời trong việc ban hành Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/01/2022 và nhiều kế hoạch, chương trình, thông tư, nghị định làm cơ sở pháp lý để chính quyền địa phương triển khai thực hiện. Với vai trò là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng, quyền làm chủ của Nhân dân, HĐND đã có những quyết sách quan trọng đưa chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống. 
II. TÌNH HÌNH TỔ CHỨC CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH 
Năm 2022, số lượng đại biểu HĐND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong cả nước giảm 42 đại biểu so với năm 2021; một số tỉnh có sự thay đổi về nhân sự Chủ tịch HĐND, Phó Chủ tịch HĐND, Trưởng Ban, Phó Trưởng Ban và số lượng Ủy viên các Ban HĐND. Nguyên nhân là do chuyển công tác, thôi làm nhiệm vụ đại biểu, bãi nhiệm, tạm đình chỉ thực hiện nhiệm vụ đại biểu, bị xử lý kỷ luật, khởi tố hoặc từ trần. 
UBTVQH và HĐND các địa phương đã kịp thời kiện toàn, nhanh chóng ổn định tổ chức, bảo đảm hoạt động thông suốt, tiếp tục tăng cường hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của HĐND, Thường trực HĐND, các Ban HĐND, Tổ đại biểu HĐND đúng theo quy định của pháp luật và điều kiện thực tế của địa phương; thể hiện tinh thần nghiêm túc, kịp thời xử lý kỷ luật những đại biểu HĐND vi phạm, phù hợp với kỷ luật về Đảng, kể cả đã về hưu, góp phần làm trong sạch bộ máy củng cố niềm tin của Nhân dân.
III. KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH 
1. Tổ chức các kỳ họp của Hội đồng nhân dân: Thực hiện Kết luận số 1144/TB-TTKQH ngày 7/6/2022 của UBTVQH, công tác tổ chức kỳ họp của HĐND cấp tỉnh tiếp tục có nhiều đổi mới, sáng tạo, bảo đảm hợp lý, khoa học cả về nội dung và thời gian tổ chức, nâng cao chất lượng theo hướng“thực chất và hiệu quả”, đúng pháp luật về quy trình, thủ tục và sự chỉ đạo của Đảng đoàn HĐND cấp tỉnh. 
Các nội dung trình kỳ họp được chuẩn bị với tinh thần chủ động, tích cực, kỹ lưỡng, thông qua các cuộc họp liên tịch giữa Đảng đoàn HĐND với Ban Cán sự đảng UBND, Đảng đoàn Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh (UBMTTQVN) để thống nhất về chương trình, nội dung, thời gian tổ chức kỳ họp. Thay mặt UBTVQH, lãnh đạo Quốc hội và các đồng chí Ủy viên UBTVQH đã đến dự và trực tiếp chỉ đạo một số kỳ họp thường lệ của HĐND cấp tỉnh, kịp thời định hướng, gợi mở những giải pháp quan trọng để các địa phương phát huy những tiềm năng, thế mạnh, phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh; chú trọng và không ngừng đổi mới cách thức tổ chức hoạt động theo hướng linh hoạt, khoa học, hiệu quả, phát huy trí tuệ, tinh thần trách nhiệm của đại biểu, tạo sự chuyển biến tích cực trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyết định kịp thời các vấn đề quan trọng của địa phương. 
Hoạt động tại kỳ họp tiếp tục được đổi mới (nhiều HĐND cấp tỉnh đã thảo luật Tổ đại biểu trước khi về dự kỳ họp), giảm thời gian đọc báo cáo, tăng thời gian cho hoạt động chất vấn, thảo luận, tăng thời gian để UBND cấp tỉnh và các ngành tiếp thu, giải trình, làm rõ những nội dung đại biểu đã đặt ra. Công tác điều hành kỳ họp tiếp tục được Chủ tọa kỳ họp đổi mới theo hướng gợi ý nội dung thảo luận có trọng tâm, trọng điểm, làm rõ những vấn đề còn ý kiến khác nhau, tạo sự đồng thuận cao, phát huy tối đa kinh nghiệm và trí tuệ của đại biểu, góp phần nâng cao cả về số lượng và chất lượng phát biểu của đại biểu HĐND… Công tác bảo đảm về cơ sở vật chất và các điều kiện cần thiết khác được tăng cường, đã đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào kỳ họp như duy trì hình thức“kỳ họp không giấy” và biểu quyết thông qua các Nghị quyết bằng máy tính bảng; bổ sung hình thức cung cấp mã QR-Code để nhân dân, cử tri truy cập theo dõi và đặt câu hỏi trực tiếp tại các phiên chất vấn, tổ chức cầu truyền hình trực tuyến đến cấp huyện, cấp xã, nhiều tỉnh đã thực hiện chuyển đổi số tất cả các hoạt động của HĐND... đã góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả và thành công của các kỳ họp HĐND cấp tỉnh, hoạt động của HĐND ngày càng thực hiện tốt hơn chức năng giám sát và quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương. 
Năm 2022, HĐND mỗi tỉnh, thành phố cả nước đã tổ chức thành công 02 kỳ họp thường lệ và tổ chức tổng số 198 kỳ họp chuyên đề và 51 kỳ họp đột xuất, kịp thời giải quyết những nội dung phát sinh đột xuất. Sau mỗi kỳ họp, Thường trực HĐND cấp tỉnh đã báo cáo và gửi hồ sơ kết quả kỳ họp về UBTVQH và Chính phủ theo quy định.
Công tác tuyên truyền trước, trong và sau kỳ họp tiếp tục được HĐND các tỉnh, thành phố đẩy mạnh, kịp thời cung cấp đầy đủ, chính xác, sâu rộng, thiết thực các hoạt động của kỳ họp HĐND cấp tỉnh đến toàn thể cử tri và nhân dân theo dõi, giám sát, đưa quyết nghị của HĐND sớm đi vào cuộc sống, góp phần tích cực vào việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa phương.
2. Việc ban hành các Nghị quyết: Năm 2022, cả nước đã ban hành tổng số 5.873 Nghị quyết (trong đó có 1.675 Nghị quyết quy phạm pháp luật, 38 Nghị quyết chất vấn, 3.860 Nghị quyết cá biệt và 300 Nghị quyết về nhân sự ), trong đó tỉnh Thừa Thiên – Huế ban hành nhiều nhất là 173 nghị quyết, tỉnh Hà Tĩnh ban hành ít nhất là 65 Nghị quyết. Các Nghị quyết được thẩm tra kỹ lưỡng, bảo đảm về cơ sở chính trị, pháp lý, chất lượng thẩm tra được nâng lên, đảm bảo nghị quyết được ban hành hợp hiến, hợp pháp, khả thi; đồng thời kiên quyết không xem xét những văn bản chưa bảo đảm các điều kiện theo quy định. Hầu hết HĐND cấp tỉnh đã thực hiện các phiên giải trình ở Thường trực HĐND, các Ban HĐND đối với nhiều những vấn đề phức tạp trước các kỳ họp HĐND, hoặc trước khi ban hành kết luận giám sát. Các Nghị quyết được ban hành đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng để triển khai thực hiện, thúc đẩy phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, nhất là các nghị quyết về cơ chế, chính sách đặc thù của địa phương, công tác đầu tư các dự án, công trình trọng điểm, đã nhận được sự đồng tình cao của cử tri và Nhân dân. Sau kỳ họp, Thường trực HĐND đã kịp thời ban hành văn bản đôn đốc các cơ quan có liên quan thực hiện Nghị quyết, Kết luận của kỳ họp. Đồng thời các cơ quan đã kịp thời triển khai thực hiện Nghị quyết, phát huy hiệu quả trong thực tiễn.
3. Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân
3.1. Hoạt động giám sát tại kỳ họp Hội đồng nhân dân: Với tinh thần thẳng thắn, nghiêm túc, trách nhiệm cao, đại biểu HĐND đã xem xét các báo cáo, đánh giá hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước, bảo đảm các nghị quyết đã được HĐND ban hành được thực thi hiệu quả. Trên cơ sở báo cáo thẩm tra, đại biểu HĐND đã chỉ rõ những vấn đề còn tồn tại, hạn chế, nguyên nhân và đề xuất giải pháp khắc phục trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, được cử tri và nhân dân đặc biệt quan tâm, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển của địa phương. 
Hoạt động chất vấn tiếp tục được đổi mới theo hướng thực chất, nhất là sau khi UBTVQH ban hành Nghị quyết số 594/NQ-UBTVQH15. Thời gian dành cho nội dung chất vấn được bố trí hợp lý. Hoạt động chất vấn đã tạo hiệu ứng tốt trong việc nêu cao trách nhiệm cá nhân, thúc đẩy hiệu quả thực thi nhiệm vụ của các cơ quan, đơn vị, được đông đảo cử tri và nhân dân quan tâm theo dõi. Đa số các ý kiến chất vấn đều được trả lời, giải trình làm rõ, có giải pháp khắc phục, được đại biểu đồng tình, thống nhất cao. Sau mỗi phiên họp chất vấn, HĐND đã ban hành nghị quyết về chất vấn và trả lời chất vấn, làm cơ sở để theo dõi, giám sát, đôn đốc, tổ chức tái giám sát trong thực hiện các vấn đề, các cam kết trước nhân dân và cử tri địa phương.
 Các báo cáo kết quả giám sát chuyên đề đã được HĐND xem xét thật trọng, toàn diện, khách quan và đã ban hành nghị quyết về kết quả giám sát làm cơ sở pháp lý quan trọng để thực hiện và tổ chức việc theo dõi, giám sát việc triển khai thực hiện nghị quyết theo quy định. 
3.2. Hoạt động giám sát giữa hai kỳ họp Hội đồng nhân dân: Công tác chuẩn bị tổ chức giám sát được thực hiện nghiêm túc, phản ánh khá rõ nét kết quả đạt được, chỉ ra hạn chế và nguyên nhân đồng thời kiến nghị giải pháp khắc phục. Tất cả các báo cáo giám sát đều được Thường trực HĐND tỉnh cho ý kiến trước khi trình HĐND xem xét, quyết định. 
Nội dung giám sát chuyên đề bao quát trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội; hoạt động tái giám sát được tăng cường với nhiều hình thức. Năm 2022, đã có tổng số 1.107 đoàn giám sát của HĐND, Thường trực HĐND, các Ban HĐND, Tổ đại biểu HĐND và đại biểu HĐND cấp tỉnh, trong đó có 81 đoàn của HĐND cấp tỉnh, 176 đoàn giám sát của Thường trực HĐND, 621 đoàn giám sát của các Ban HĐND, 229 Tổ đại biểu HĐND, đã tiếp nhận được 11.229 kiến nghị, đến thời điểm báo cáo đã có 8.083 kiến nghị được giải quyết (tỷ lệ 70,39 %).
Năm 2022, Thường trực HĐND cấp tỉnh phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền thực hiện giám sát đối với 04 chuyên đề của Quốc hội, UBTVQH và kết quả giám sát đã được báo cáo Quốc hội theo quy định, góp phần vào việc hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; việc giám sát giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân trước và sau kỳ họp thường lệ và các nội dung còn tồn đọng tại các kỳ họp trước, được tổng hợp, phân loại, theo dõi, đôn đốc giải quyết theo quy định với nhiều hình thức giám sát phong phú; việc giám sát giải quyết kiến nghị của cử tri được lồng ghép vào các cuộc giám sát, khảo sát thường kỳ; được thẩm tra trước khi trình HĐND cấp tỉnh xem xét, quyết định; hoạt động chất vấn, giải trình tại phiên họp của Thường trực HĐND được chú trọng thực hiện, nội dung chất vấn, giải trình bao quát, toàn diện trên các lĩnh vực. Sau phiên chất vấn, giải trình Thường trực HĐND cấp tỉnh ban hành Thông báo kết luận, giao các Ban HĐND, Tổ đại biểu HĐND giám sát, khảo sát việc thực hiện và đề nghị UBMTTQVN các cấp phối hợp giám sát, tham gia phản biện xã hội, góp phần nâng cao hiệu quả, hiệu lực thực thi pháp luật ở địa phương và công tác xây dựng pháp luật. 
4. Hoạt động tiếp xúc cử tri; tiếp công dân, tiếp nhận và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân
4.1. Hoạt động tiếp xúc cử tri: Thường trực HĐND cấp tỉnh đã chủ động phối hợp với Ban Thường trực UBMTTQVN cùng cấp tổ chức để đại biểu HĐND tỉnh thực hiện tiếp xúc cử tri theo chuyên đề, theo đối tượng, theo ngành, theo lĩnh vực, kết hợp trực tiếp với trực tuyến, qua đường dây tiếp nhận ý kiến cử tri; hình thức tiếp xúc cử tri phong phú, phù hợp với mỗi địa phương như tổ chức Hội nghị tiếp xúc cử tri có cả đại biểu HĐND cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã cùng dự; thay đổi địa bàn tiếp xúc cử tri, mời đại diện các cơ quan cùng tham dự. Do đó, đã tăng cả số lượng và chất lượng các cuộc tiếp xúc cử tri và thu được nhiều ý kiến, kiến nghị xác đáng. 
Trong năm 2022, đại biểu HĐND cấp tỉnh đã tiếp xúc cử tri tổng số 4.440 cuộc (trong đó theo chuyên đề là 75 cuộc, theo định kỳ “trước và sau kỳ họp” 4.344 cuộc, theo hình thức khác là 21 cuộc), nhận được tổng số 21.429 kiến nghị và số kiến nghị được giải quyết trung bình của cả nước là 83,05%, nhiều tỉnh có tỷ lệ giải quyết đạt 100%…. Các kiến nghị sau được trả lời đều được công khai tại các kỳ họp HĐND và được đăng tải trên trang thông tin điện tử tỉnh, thành phố và các kênh thông tin đại chúng, cơ bản đáp ứng nguyện vọng của cử tri.
4.2. Hoạt động tiếp công dân, tiếp nhận và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân: Năm 2022, Thường trực HĐND, đại biểu HĐND cấp tỉnh đã tổ chức tiếp công dân, tiếp nhận và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân trung bình đạt tỷ lệ 87,86%, trong đó một số địa phương có tỷ lệ 100% đại biểu HĐND cấp tỉnh tiếp công dân, với tổng số 16.129 lượt công dân, tiếp nhận được tổng số 9.165 khiếu nại, tố cáo và tỷ lệ trung bình của cả nước về giải quyết khiếu nại, tố cáo của cả nước là 88,70%, trong đó có một số tỉnh, thành phố có tỷ lệ giải quyết đạt tỷ lệ 100%.
5. Hoạt động của Thường trực Hội đồng nhân dân
5.1. Công tác chỉ đạo, điều hòa, phối hợp hoạt động của các Ban HĐND: Ngay từ đầu năm, Thường trực HĐND cấp tỉnh đã thực hiện tốt chức năng chỉ đạo, điều hòa, phối hợp hoạt động các Ban HĐND; phê duyệt chương trình công tác năm, bảo đảm về nội dung, tiến độ, chất lượng; phân công các Ban HĐND thẩm tra, khảo sát và các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật... góp phần nâng cao vị trí vai trò là cơ quan Thường trực của HĐND cấp tỉnh.
5.2. Việc tổ chức các phiên họp Thường trực Hội đồng nhân dân: Ngoài việc duy trì đều đặn việc họp giao ban định kỳ hàng tuần, hàng tháng, đã tổ chức 790 cuộc họp định kỳ, 201 cuộc họp đột xuất hoặc lấy ý kiến bằng văn bản, đã yêu cầu 360 cơ quan thực hiện giải trình, thực hiện hoạt động chất vấn đối với 169 người, bảo đảm kịp thời việc ban hành các quyết định thuộc thẩm quyền của HĐND và một số nội dung khác, đáp ứng yêu cầu thực tiễn của địa phương. Nội dung, chương trình các phiên họp được xây dựng chặt chẽ, sát tình hình thực tiễn, phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ được giao; phương pháp tổ chức, chất lượng phiên họp từng bước được cải tiến, nâng cao. Sau các phiên họp, Thường trực HĐND ban hành kết luận, làm cơ sở các cơ để thực hiện, theo dõi, giám sát.. góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Thường trực HĐND, tạo chuyển biến tích cực. 
5.3. Quan hệ công tác: mối quan hệ công tác với Quốc hội, UBTVQH, các cơ quan của Quốc hội, các cơ quan thuộc UBTVQH, Văn phòng Quốc hội và các cơ quan nhà nước cấp trên được tăng cường qua hoạt động hướng dẫn của UBTVQH, tham dự một số kỳ họp HĐND của lãnh đạo Quốc hội, các Ủy viên UBTVQH; phối hợp giám sát, khảo sát; tham dự các kỳ họp Quốc hội; tổ chức hội nghị, hội thảo, tọa đàm, tập huấn; thực hiện chế độ báo cáo kết quả hoạt động… đã tạo nên hiệu ứng tích cực, chuyển biến mạnh mẽ trong việc hoàn thiện và thực thi pháp luật của mỗi cơ quan, góp phần hoàn thành các mục tiêu của cả nước nói chung và của mỗi địa phương nói riêng. 
Công tác phối hợp giữa Thường trực HĐND - UBND - Ban Thường trực UBMTTQVN tỉnh và Đoàn đại biểu Quốc hội được phát huy ngày càng chặt chẽ, đem lại hiệu quả cho hoạt động của mỗi cơ quan, thông qua hoạt động phối hợp tổ chức kỳ họp của HĐND; tổ chức tiếp xúc cử tri, tiếp công dân, giải quyết kiến nghị cử tri, công tác giám sát, tổ chức lấy ý kiến Nhân dân, công tác thông tin tuyên truyền, xây dựng chính quyền...
6. Hoạt động của các Ban HĐND đã tích cực, chủ động, linh hoạt thực hiện công tác khảo sát, giám sát, thẩm tra, cơ bản đúng tiến độ; tiếp tục đổi mới phương pháp thẩm tra, bảo đảm chặt chẽ, chất lượng, quy trình, thủ tục theo quy định của pháp luật. Nhiều nội dung qua thẩm tra được UBND cấp tỉnh và các cơ quan tiếp thu, giải trình làm rõ, góp phần nâng cao chất lượng các nghị quyết được ban hành, cũng như tăng tính hiệu quả trong hoạt động của HĐND cấp tỉnh.
7. Hoạt động của Tổ đại biểu HĐND và đại biểu HĐND cấp tỉnh đã duy trì việc sinh hoạt, thường xuyên trao đổi bằng nhiều hình thức khác nhau: phân công tiếp xúc cử tri, tiếp công dân, theo dõi việc giải quyết kiến nghị của cử tri, thực hiện giám sát, khảo sát, tham dự các hội nghị, hội thảo, đề xuất... Kết quả hoạt động của các Tổ đại biểu đã góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của HĐND cấp tỉnh. Bên cạnh đó, các Tổ đại biểu đã tổ chức nhiều hoạt động thiết thực chăm lo cho đối tượng chính sách, đền ơn đáp nghĩa, khuyến học…
8. Công tác thông tin tuyên truyền hoạt động của HĐND, các Ban HĐND, Tổ đại biểu HĐND, đại biểu HĐND với nhiều hình thức tuyên truyền về hoạt động của HĐND và được HĐND các tỉnh, thành phố đẩy mạnh, thực hiện bài bản, nhất là các hoạt động tại kỳ họp HĐND, các phiên chất vấn và trả lời chất vấn; tối ưu hóa ứng dụng thông tin tuyên truyền về hoạt động của HĐND, kịp thời nhận được nhiều ý kiến, kiến nghị của cử tri, qua đó góp phần bảo đảm quyền lợi chính đáng của nhân dân. 
9. Các điều kiện bảo đảm cho hoạt động của HĐND 
Về các chế độ, chính sách và điều kiện đảm bảo cho hoạt động HĐND được thực hiện đúng các quy định pháp luật hiện hành; tổ chức cho đại biểu HĐND tham quan, học tập kinh nghiệm thực tế ở kỳ họp Quốc hội và một số tỉnh, thành phố khác. Bộ máy Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND luôn được củng cố và kiện toàn theo hướng sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, gắn với công tác quy hoạch với vị trí việc làm, thực hiện tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng, trang bị và nâng cấp cơ sở vật chất bảo đảm đáp ứng yêu cầu phục vụ tốt nhất hoạt động HĐND, Thường trực HĐND, các Ban HĐND, Tổ đại biểu HĐND và đại biểu HĐND. 
IV. ĐÁNH GIÁ CHUNG 
1. Ưu điểm
Năm 2022, hoạt động của HĐND cấp tỉnh đã có nhiều đổi mới về phương thức, cách thức tổ chức hoạt động. Hiệu lực, hiệu quả được nâng lên rõ rệt, góp phần quan trọng vào việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng, xây dựng hệ thống chính trị ở từng địa phương.
Với sự lan tỏa trong đổi mới hoạt động của Quốc hội, sự chỉ đạo tập trung của Trung ương và của cấp ủy đảng cùng cấp, hoạt động của HĐND các địa phương trong năm 2022 tiếp tục có nhiều đổi mới theo hướng thực chất và hiệu quả. HĐND đã bám sát các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và Nghị quyết của cấp ủy, cụ thể hóa thành các Nghị quyết, ban hành cơ chế, chính sách, các biện pháp thiết thực, khả thi, phù hợp với điều kiện và tình hình thực tế của địa phương, bảo đảm tính thống nhất đồng bộ, làm cơ sở để thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu đã được HĐND cấp tỉnh thông qua cuối năm 2021, đặc biệt là Chương trình phục hồi, phát triển kinh tế, các Chương trình mục tiêu quốc gia và triển khai kế hoạch đầu tư công năm 2022, giai đoạn 2021-2025...
Các Ban HĐND đã chủ động trong hoạt động thẩm tra báo cáo, tờ trình, nghị quyết, có nhiều đổi mới về cách làm và phương pháp tiếp cận, bảo đảm kỹ lưỡng, tranh thủ được nhiều ý kiến của các chuyên gia, các nhà khoa học, của cử tri và nhân dân địa phương, kết hợp giữa xem xét báo cáo với khảo sát cơ sở, có chính kiến rõ ràng, tính phản biện cao phục vụ trước khi trình kỳ họp HĐND, làm cơ sở để đại biểu thảo luận, xem xét, quyết định. Công tác điều hành kỳ họp luôn được rút kinh nghiệm và có những cải tiến hợp lý. Chủ tọa kỳ họp đã phát huy tính dân chủ, điều hành linh hoạt và sáng tạo, tạo không khí dân chủ, phát huy được nhiều ý kiến của tập thể, của đại biểu HĐND. Việc trình bày các báo cáo tại hội trường được đổi mới, trình chiếu phóng sự hoặc chỉ trình bày những vấn đề cơ bản để dành thời gian tập trung thảo luận, chất vấn và quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương. Nội dung, chương trình các kỳ họp thực hiện bảo đảm đúng quy định của pháp luật, bám sát sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng và phù hợp với điều kiện thực tiễn của từng địa phương. 
Các Nghị quyết ban hành bảo đảm sự thống nhất, khả thi, thiết thực, đúng pháp luật, đúng đường lối, chủ trương của đảng và phát huy hiệu quả khi thi hành, đáp ứng yêu cầu và nguyện vọng chính đáng của cử tri và nhân dân địa phương. Công tác thông tin tuyên truyền trước, trong và sau khi họp HĐND được duy trì và phát huy hiệu quả trên thực tế, góp phần đưa Nghị quyết của HĐND đi vào thực tiễn cuộc sống. Đã đẩy mạnh hơn việc ứng dụng công nghệ thông tin tiến tới chuyển đổi số trong tất cả các hoạt động của HĐND, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của HĐND, các Ban HĐND, Tổ đại biểu HĐND và đại biểu HĐND.
 Phương thức tổ chức hoạt động giám sát, tái giám sát của HĐND cấp tỉnh có sự chuyển biến rõ rệt, nhất là sau khi UBTVQH ban hành Nghị quyết số 594/NQ-UBTVQH15 ngày 12/9/2022 về hướng dẫn hoạt động giám sát của của HĐND. Nghị quyết như một “cẩm nang” để thống nhất, chuẩn hóa, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND, khắc phục được một số hạn chế, vướng mắc, lúng túng trong thực tiễn giám sát của HĐND hiện nay. 
 Hoạt động tiếp công dân đã phát huy hiệu quả, nhiều vụ việc đã được giải quyết dứt điểm. Việc phối hợp điều hòa, hướng dẫn hoạt động với các cơ quan có liên quan được duy trì, chặt chẽ, rõ trách nhiệm. Hoạt động tiếp xúc cử tri, tiếp công dân, tiếp nhận, xử lý đơn thư, khiếu nại, tố cáo và giải quyết kiến nghị cử tri được quan tâm đổi mới. 
Nhiều địa phương, HĐND cấp tỉnh tiếp tục phối hợp triển khai hiệu quả các Nghị quyết của Quốc hội về cơ chế đặc thù như các tỉnh, thành phố: Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng, Nghệ An, Thanh Hóa, Thừa Thiên Huế. Qua triển khai thực hiện các Nghị quyết đã phát huy hiệu quả, giúp các địa phương chủ động, sử dụng linh hoạt, hiệu quả hơn các nguồn lực sẵn có, huy động tối đa mọi nguồn lực tạo bước đột phá, góp phần đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án và kịp thời giải quyết các bức xúc về cơ sở hạ tầng, giải quyết các vấn đề về xã hội, môi trường, giao thông…
2. Tồn tại, hạn chế
- Ủy ban Thường vụ Quốc hội giám sát việc ban hành các Nghị quyết chứa quy phạm pháp luật của HĐND còn hạn chế.
- Quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động của HĐND, các Ban HĐND, Tổ đại biểu HĐND, đại biểu HĐND chưa thật rõ, ví dụ thẩm quyền về điều chỉnh hệ số đất và hệ số điều chỉnh giá đất.
- Về hoạt động của Thường trực HĐND, trong đó có hoạt động chất vấn, giải trình tại các Phiên họp thực hiện chưa nhiều, chủ yếu tập trung chất vấn tại kỳ họp. Chưa tổ chức được nhiều hoạt động giám sát thực hiện các kết luận, kiến nghị giám sát của HĐND, Thường trực HĐND, các Ban HĐND, Tổ đại biểu HĐND và đại biểu HĐND tỉnh.
Hình thức tiếp xúc cử tri chưa đa dạng, chủ yếu tiếp xúc cử tri tại các đơn vị bầu cử trước và sau kỳ họp thường lệ, tiếp xúc cử tri theo chuyên đề, lĩnh vực, nơi làm việc, nơi cư trú còn ít...; việc giải quyết kiến nghị của cử tri đối với một số vụ việc chưa được giải quyết dứt điểm liên quan đến nguồn lực, cơ chế chính sách hoặc chưa nhận được sự đồng thuận cao của cử tri. Việc giải quyết, trả lời kiến nghị cử tri của một số các cơ quan có thẩm quyền còn kéo dài, quá thời hạn quy định. Việc theo dõi, đôn đốc giải quyết các kiến nghị, kết luận qua giám sát chưa được thường xuyên và triệt để.
- Về hoạt động của các Ban HĐND, chất lượng thẩm tra chưa được đồng đều, chất lượng một số văn bản chưa cao; ở một số địa phương kế hoạch, lịch làm việc của các Ban HĐND có lúc còn chồng chéo, chưa thực sự khoa học.
- Về hoạt động của Tổ đại biểu HĐND, đại biểu HĐND có nơi còn hạn chế như chưa bố trí nhiều thời gian cho hoạt động giám sát, tiếp xúc cử tri, duy trì họp tổ thường xuyên; chưa thực hiện tốt hoạt động tiếp công dân định kỳ.
- Về sự phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của HĐND có lúc chưa chặt chẽ, chưa bảo đảm thời gian theo quy định của pháp luật về lấy ý kiến đối với các đối tượng chịu sự tác động của chính sách; các đơn vị được xin ý kiến chưa quan tâm đến việc tham gia vào dự thảo nghị quyết.
Công tác dự báo các nguồn lực thực hiện nghị quyết chưa được tính toán đầy đủ, chưa có sự gắn kết chặt chẽ giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội với nguồn lực ngân sách nên quá trình tổ chức triển khai thực hiện còn gặp lúng túng, khó khăn.
3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
* Về nguyên nhân khách quan: Hệ thống văn bản pháp luật ngày càng nhiều và có sự phân cấp dần cho các địa phương, trong khi đó UBND cấp tỉnh chưa kịp thời chỉ đạo các cơ quan chuyên môn nghiên cứu, tham mưu trình HĐND cấp tỉnh ban hành theo quy định; một số văn bản hướng dẫn của Trung ương chậm được ban hành như các hướng dẫn về việc thực hiện các chương trình, mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021-2025 hoặc còn có nhiều cách hiểu khác nhau giữa các cơ quan, gây khó khăn cho việc thực hiện; một số cơ quan ngành dọc như Bảo hiểm xã hội, Kho bạc, Thi hành án dân sự, thuế... hoạt động và thực thi pháp luật có ảnh hưởng nhiều đến quyền và lợi ích của nhân dân địa phương nhưng đại biểu không có quyền chất vấn thủ trưởng các cơ quan này do không thuộc đối tượng chất vấn theo quy định của pháp luật; chưa có chế tài đủ mạnh để xử lý đối với các trường hợp chịu sự giám sát không chấp hành việc thực hiện các kết luận, kiến nghị sau giám sát; một số nội dung cần phải có nội dung, lộ trình, nguồn lực hoặc hướng dẫn của Trung ương nên chưa giải quyết được dứt điểm.
Năm 2022, có một số nội dung mới phát sinh ngoài chương trình, kế hoạch năm, có một số nội dung mới và khó dẫn đến quá tải trong việc thực hiện nhiệm vụ; việc cung cấp thông tin, số liệu của các cơ quan phục vụ hoạt động của HĐND ở một số nơi chưa thống nhất, đầy đủ, chính xác, kịp thời; chưa có giải pháp hiệu quả để khắc phục việc chậm gửi, lùi hoặc thay đổi một số nội dung trình của UBND và các cơ quan có liên quan tại các kỳ họp HĐND.
Bên cạnh đó, nguồn lực của một số địa phương còn hạn chế nên chưa được giải quyết dứt điểm được một số kiến nghị của cử tri như về lĩnh vực đầu tư xây dựng; một số nơi còn xem nhẹ vai trò của HĐND trong bộ máy nhà nước; thiếu sự quan tâm, phối hợp trong các mặt công tác nên hiệu quả chưa cao.
* Về nguyên nhân chủ quan: 
Nhiệm vụ theo chức năng, nhiệm vụ của HĐND được giao ngày càng nhiều, trong khi số lượng đại biểu HĐND hoạt động chuyên trách còn ít. Một số đại biểu do bận công tác chuyên môn, nhất là đại biểu hoạt động kiêm nhiệm nên chưa bảo đảm về thời gian tham gia giám sát, khảo sát, thẩm tra, sự thay đổi nơi công tác của một số đại biểu đã ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả hoạt động. Bên cạnh đó, một số đại biểu trình độ, năng lực và kinh nghiệm chuyên môn còn hạn chế hoặc còn nể nang, ngại va chạm, chưa mạnh dạn thảo luận, tranh luận, chất vấn. 
Tổ chức bộ máy, biên chế của cơ quan giúp việc HĐND còn ít chưa tương xứng với vị trí, chức năng, nhiệm vụ; chất lượng chưa đồng đều. Cơ sở vật chất, chế độ bồi dưỡng, đào tạo và chế độ chính sách đối với đại biểu HĐND, công chức của Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND còn hạn chế, bất cập.
V. PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ CÔNG TÁC CỦA NĂM 2023
1. Phương hướng đổi mới nâng cao chất lượng hoạt động của HĐND
(1) Bám sát các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và thực tiễn của từng địa phương để đổi mới hoạt động, bảo đảm tính khả thi, thực chất, hiệu quả cao trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ của HĐND các cấp. Phát huy vai trò của Đảng đoàn HĐND trong xây dựng kế hoạch và đề xuất với cấp ủy cho ý kiến về định hướng, chương trình hoạt động của HĐND, nhất là Chương trình ban hành Nghị quyết của HĐND; kịp thời thể chế hóa, cụ thể hóa các chủ trương, đường lối của đảng, chính sách pháp luật của nhà nước, đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của cử tri và nhân dân. Tiếp tục kiện toàn nhân sự Thường trực HĐND, các Ban HĐND, Tổ đại biểu HĐND ở một số địa phương hiện còn khuyết thiếu.
(2) Bám sát chương trình xây dựng luật của Quốc hội để định hướng hoạt động của HĐND; tham gia đầy đủ các khảo sát, giám sát theo chương trình, kế hoạch của Quốc hội, UBTVQH và các cơ quan Trung ương và tham gia tích cực, hiệu quả vào việc hoàn thiện thể chế, tổ chức thực thi pháp luật ở địa phương.
(3) Đổi mới nâng cao chất lượng kỳ họp theo hướng nâng cao chất lượng chuẩn bị các báo cáo, dự thảo nghị quyết, khắc phục tình trạng chậm gửi hồ sơ, tài liệu, kiên quyết không trình những nội dung chưa bảo đảm chất lượng, chưa tuân thủ quy trình, bảo đảm nghị quyết được ban hành phát huy hiệu lực, hiệu quả.
(4) Đổi mới hoạt động giám sát và nâng cao hơn nữa chất lượng công tác giám sát theo hướng xây dựng và tổ chức kế hoạch giám sát bảo đảm khoa học, chất lượng và hiệu quả, tăng cường khảo sát thực tế kết hợp xem xét báo cáo, tạo chuyển biến tích cực sau giám sát, thực hiện các hoạt động giám sát lại khi xét thấy cần thiết, kịp thời ban hành các nghị quyết để tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về phát triển kinh tế - xã hội, tài chính - ngân sách, đầu tư công, các chương trình mục tiêu quốc gia.
 (5) Đổi mới công tác tiếp xúc cử tri theo hướng tiếp xúc theo chuyên đề, lĩnh vực, giới, ngành, kết hợp trực tuyến với trực tiếp, tăng thời gian, số lượng tiếp xúc cử tri, mở rộng tiếp xúc cử tri đến từng xã, thôn, những nơi còn khó khăn, hạn chế việc tiếp xúc “đại cử tri”.., đồng thời đẩy mạnh công tác theo dõi, đôn đốc, giám sát việc giải quyết, trả lời các ý kiến, kiến nghị của cử tri; thực hiện các biện pháp đồng bộ, chủ động phối hợp với Ủy ban MTTQVN, các đoàn thể, cơ quan báo chí, cùng nhân dân trong việc xem xét, giải quyết triệt để các kiến nghị chính đáng của cử tri và các kết luận sau giám sát.
(6) Đổi mới hoạt động của Thường trực HĐND cấp tỉnh theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả các phiên họp của Thường trực HĐND cấp tỉnh, giải quyết kịp thời có hiệu quả các vấn đề phát sinh giữa hai kỳ họp, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho quản lý, điều hành của UBND cấp tỉnh thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh của địa phương; tăng cường chỉ đạo, điều hòa, phối hợp hoạt động của các Ban HĐND tỉnh, Tổ đại biểu HĐND tỉnh.
(7) Đổi mới công tác thông tin, tuyên truyền về hoạt động của HĐND, Thường trực HĐND, các Ban HĐND, Tổ đại biểu HĐND, đại biểu HĐND theo hướng tuyên truyền kịp thời, toàn diện cả chiều rộng và chiều sâu để cử tri và Nhân dân theo dõi, giám sát. Triển khai phát động và xây dựng kế hoạch thực hiện giải báo chí toàn quốc tuyên truyền về các hoạt động của Quốc hội và HĐND được tổ chức hằng năm.
 (8) Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong các hoạt động của HĐND cấp tỉnh, phát triển hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu đồng bộ, liên thông từ HĐND cấp tỉnh đến HĐND cấp huyện và cấp xã; tiếp tục chỉ đạo nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính chuyên nghiệp trong công tác tham mưu, phục vụ các kỳ họp HĐND, của Thường trực HĐND và các Ban HĐND cấp tỉnh.
2. Một số nhiệm vụ, giải pháp
(1) Đối với Quốc hội, UBTVQH và cơ quan nhà nước cấp trên: Tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của HĐND các cấp theo đúng tinh thần Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới như: Hoàn thiện tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với các địa bàn đô thị, nông thôn, miền núi, hải đảo, đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt; xây dựng cơ chế, thể chế, chính sách đặc thù thúc đẩy phát triển vùng, liên kết vùng đủ mạnh, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh của đất nước…, UBTVQH nghiên cứu ban hành Quy chế mẫu hoạt động của HĐND cấp tỉnh, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ trong tổ chức thực hiện; tiếp tục nghiên cứu, đề xuất sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản pháp luật có liên quan kịp thời thể chế hóa các nội dung của 06 Nghị quyết của Trung ương về phát triển 06 vùng kinh tế - xã hội. Đồng thời, có phương án để kiện toàn sớm các chức danh còn khuyết thiếu của Thường trực HĐND.
- Duy trì tổng kết công tác HĐND một lần/năm; đổi mới công tác tổ chức Hội nghị Thường trực HĐND các khu vực, bảo đảm thiết thực, hiệu quả, nâng cao năng lực, vai trò và trách nhiệm của các cơ quan của Quốc hội, cơ quan tham mưu giúp UBTVQH giám sát, hướng dẫn hoạt động của HĐND.
(2) Đối với HĐND các địa phương: trong tổ chức và hoạt động cần bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của tỉnh, thành ủy đối với hoạt động của HĐND; bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. 
- Kịp thời thể chế hóa các Nghị quyết của Đảng, Nghị quyết Quốc hội, Chính phủ, Nghị quyết đảng bộ tỉnh, thành phố và pháp luật của nhà nước thành Nghị quyết của HĐND, đồng thời triển khai có hiệu quả trong thực tế, nhất là các Nghị quyết của Trung ương về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh của 6 vùng kinh tế. Chú trọng đến các nhóm giải pháp ngoài việc phát huy lợi thế so sánh, mang tính đặc trưng riêng của mỗi địa phương thì cần hướng tới liên kết vùng, hoàn thiện thể chế, thu hút đầu tư trong và ngoài nước; hoàn thiện kết cấu hạ tầng, phát triển kinh tế đồng bộ với phát triển văn hóa - xã hội, bảo vệ môi trường. Phấn đấu hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, dự toán ngân sách nhà nước năm 2023, làm tiền đề để bứt phá trong các năm tiếp theo. Tham gia tích cực vào chương trình xây dựng luật, các dự án luật trình Quốc hội theo đề nghị của UBTVQH.
- Thực hiện tốt Quy chế phối hợp giữa Thường trực HĐND với UBND, Đoàn ĐBQH, Ủy ban MTTQ cấp tỉnh trong việc chuẩn bị nội dung, chương trình kỳ họp của HĐND cấp tỉnh năm 2023 bảo đảm đúng quy định của pháp luật. Chủ động hơn nữa trong công tác phối hợp với UBND và các cơ quan có liên quan chuẩn bị “từ sớm, từ xa” nội dung, chương trình kỳ họp, không đưa vào chương trình kỳ họp những nội dung chưa đáp ứng được yêu cầu về chất lượng. 
- Thực hiện tốt các hoạt động giám sát trong kỳ họp như xem xét báo cáo của các cơ quan; chất vấn và trả lời chất vấn; tổ chức lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do HĐND bầu theo Nghị quyết số 85/2014/QH13 của Quốc hội và hoạt động giám sát theo chuyên đề. Phối hợp, tham gia có hiệu quả vào chương trình giám sát của Quốc hội, UBTVQH, các cơ quan của Quốc hội.
- Thường trực HĐND cấp tỉnh thực hiện tốt nhiệm vụ điều hòa, phối hợp thực hiện có hiệu quả hoạt động của các Ban HĐND tỉnh; duy trì các cuộc họp Thường trực HĐND và các cuộc họp đột xuất theo quy định; tiếp tục tăng cường các hoạt động chất vấn và giải trình tại phiên họp của Thường trực HĐND tỉnh; thực hiện tốt công tác tiếp công dân định kỳ của Thường trực HĐND cấp tỉnh và đại biểu HĐND theo quy định; tiếp nhận, xử lý, theo dõi việc giải quyết các đơn thư khiếu nại, tố cáo, phản ánh, kiến nghị của công dân và thực hiện có hiệu quả công tác giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, phản ánh, kiến nghị của công dân; tăng cường mối quan hệ công tác và hướng dẫn hoạt động của HĐND cấp huyện, cấp xã thông qua việc Thường trực HĐND, các Ban HĐND cấp tỉnh dự các kỳ họp HĐND cấp huyện, cấp xã; tổ chức các hội nghị giao ban, trao đổi kinh nghiệm với HĐND cấp huyện, cấp xã; hướng dẫn hoạt động của HĐND cấp huyện, cấp xã theo quy định; duy trì tổ chức Hội nghị giao ban Thường trực HĐND tỉnh đối với HĐND tỉnh cấp huyện; tổ chức tốt tiếp xúc cử tri, giải quyết đơn thư, khiếu nại tố cáo của công dân và tăng cường công tác đối ngoại của HĐND.
- Thực hiện nghiêm túc quy định về chế độ báo cáo hoạt động của HĐND cấp tỉnh với UBTVQH, các cơ quan Trung ương và Ban Thường vụ tỉnh, thành ủy.
- Bảo đảm các điều kiện hoạt động của đại biểu HĐND cấp tỉnh theo quy định của pháp luật, nhất là công nghệ thông tin và tăng cường bồi dưỡng, tập huấn kiến thức, kỹ năng cho đại biểu HĐND các cấp, công chức, viên chức Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND cấp tỉnh.

Trên đây là Báo cáo tóm tắt về tình hình tổ chức và hoạt động của HĐND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương năm 2022 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2023, UBTVQH trân trọng báo cáo.

ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI

 
  • Ông Nguyễn Văn Tố Trưởng ban thường trực quốc hội khoá I (2/3/1946 - 8/11/1946)
  • Bà Nguyễn Thị Kim Ngân Chủ tịch Quốc hội khóa XIII, XIV (Từ 31/3/2016 đến 30/3/2021)
  • Ông Vương Đình Huệ Chủ tịch Quốc hội khóa XIV (từ ngày 31/3/2021)
  • Ông Bùi Bằng Đoàn Trưởng ban thường trực quốc hội khoá I (9/11/1946 - 13/4/1955)
  • Ông Tôn Đức Thắng Trưởng ban thường trực quốc hội khoá I (20/9/1955 - 15/7/1960)
  • Ông Trường Chinh Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội các khoá II, III, IV, V, VI (15/7/1960 - 04/7/1981)
  • Ông Nguyễn Hữu Thọ Chủ tịch Quốc hội khoá VII (4/7/1981 – 18/6/1987)
  • Ông Lê Quang Đạo Chủ tịch Quốc hội khoá VIII (18/6/1987 – 23/9/1992)
  • Ông Nông Đức Mạnh Chủ tịch Quốc hội khoá IX, X (23/9/1992 – 27/6/2001)
  • Ông Nguyễn Văn An Chủ tịch Quốc hội khoá X, XI (27/6/2001 - 26/6/2006)
  • Ông Nguyễn Phú Trọng Chủ tịch Quốc hội XI, XII (27/6/2006 - 23/7/2011)
  • Ông Nguyễn Sinh Hùng Chủ tịch Quốc hội khoá XIII (Từ 23/7/2011)
QUỐC HỘI KHÓA XV
Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV được tiến hành vào ngày 23/5/2021 với tổng số đại biểu Quốc hội là 499 đại biểu.
Cơ cấu như sau:
- 38,88% đại biểu ở các cơ quan Trung ương;
- 60,32% đại biểu ở địa phương;
- 0,80% đại biểu tự ứng cử;
- 17,84% đại biểu là người dân tộc thiểu số;
- 30,26% đại biểu là phụ nữ;
- 2,81% đại biểu là người ngoài Đảng;
- 9,42% đại biểu là người trẻ tuổi;
- 39,28% đại biểu là đại biểu Quốc hội khóa XIV tái cử;
- 1,40% đại biểu đã là đại biểu Quốc hội các khóa trước;
- 59,32% đại biểu tham gia Quốc hội lần đầu;
- 78,56% đại biểu có trình độ trên đại học;
- 21,24% đại biểu có trình độ đại học;
- 0,20% đại biểu có trình độ dưới đại học.
WEBLINK